Trình bày Chuyên đề về Những điểm mới trong các dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, sáng 16/4, đồng chí Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ cho biết, các báo cáo đã được bổ sung, hoàn thiện theo hướng có tính cách mạng, hành động, khả thi cao, ngắn gọn, súc tích, có trọng tâm, trọng điểm, đồng thời bảo đảm tính khái quát cao.
Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết, trong thời gian gần đây, bối cảnh tình hình thế giới biến động nhanh, phức tạp, nhiều vấn đề mới phát sinh; ở trong nước, Đảng ta đã ban hành và lãnh đạo thực hiện nhiều chủ trương, quyết sách mới, quan trọng, mang tính lịch sử. Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm, Bộ Chính trị đã giao các Tiểu ban của Đại hội XIV bổ sung, cập nhật, hoàn thiện dự thảo các văn kiện với các quan điểm, mục tiêu mới và các giải pháp, nhiệm vụ mang tính đột phá, mạnh mẽ hơn nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới.
Tại Hội nghị lần thứ 11 vừa qua, Trung ương đã dành nhiều thời gian thảo luận và đã có 538 lượt ý kiến để hoàn thiện dự thảo các văn kiện. Trong đó có nhiều điểm mới, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng cần tập trung quán triệt tại Hội nghị hôm nay để các cấp uỷ đảng, chính quyền tập trung chuẩn bị triển khai ngay từ thời điểm hiện nay; đồng thời góp phần định hướng cho việc xây dựng văn kiện đại hội đảng các cấp.
Những điểm mới trong dự thảo Báo cáo Tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong 40 năm qua ở Việt Nam
Về bối cảnh: Báo cáo bổ sung đánh giá nhận định về cục diện thế giới thay đổi theo xu hướng đa cực, đa trung tâm, đa tầng nấc; tương quan sức mạnh kinh tế giữa các quốc gia, khu vực đang có nhiều thay đổi. Hầu hết các nước trên thế giới đều cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, hiện đại hoá nền quản trị quốc gia, thúc đẩy sự phát triển chung của khu vực và thế giới.
Về phát triển nhận thức lý luận của Đảng và thành tựu qua 40 năm đổi mới:
Báo cáo làm rõ hơn sự phát triển nhận thức lý luận đột phá về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bổ sung nội dung về những nhận thức mới trong ứng dụng các mô hình kinh tế mới như kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, đẩy mạnh chuyển đổi số trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
Báo cáo khẳng định rõ: Trải qua 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; độc lập, chủ quyền quốc gia và môi trường hoà bình được giữ vững, chính trị - xã hội ổn định, kinh tế ngày càng phát triển, quốc phòng, an ninh được bảo đảm vững chắc, đời sống nhân dân không ngừng được nâng cao. Từ một nước nghèo, lạc hậu, Việt Nam đã thoát khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Từ một nước thiếu lương thực, Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Tỉ lệ hộ nghèo giảm từ 58% năm 1993 xuống còn khoảng dưới 1,9% năm 2024 theo chuẩn nghèo đa chiều. Việt Nam đã trở thành nền kinh tế lớn thứ 4 trong ASEAN, thứ 32 trên thế giới; GDP bình quân đầu người năm 2025 gấp gần 25 lần sau ba thập kỷ; tuổi thọ trung bình tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên khoảng 74,7 tuổi năm 2025. Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam thuộc nhóm nước trung bình cao của thế giới. Chỉ số hạnh phúc theo xếp hạng của Liên hợp quốc năm 2025 tăng 8 bậc so với năm 2024, lên thứ hạng 46/143 quốc gia (năm 2020 xếp thứ 83).
Tuy nhiên, đất nước ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Bốn nguy cơ mà Đảng chỉ ra đã từng bước được khắc phục, song có mặt còn diễn biến phức tạp hơn. Nguy cơ bao trùm là chậm đổi mới tư duy phát triển, không theo kịp các xu thế phát triển của thế giới, chậm xây dựng và hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững đất nước trong giai đoạn mới. Nguy cơ tụt hậu, nhất là tụt hậu về công nghệ và rơi vào bẫy thu nhập trung bình rất đáng lo ngại.
Về bài học kinh nghiệm: Từ thực tiễn 40 năm đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước, Báo cáo rút ra được 05 bài học kinh nghiệm mang tầm lý luận về đường lối đổi mới:
- Một là, kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng.
- Hai là, giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Ba là, quán triệt sâu sắc và thực hành triệt để quan điểm Dân là gốc. Phát huy vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của Nhân dân. Mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của Nhân dân.
- Bốn là, bám sát thực tiễn, chủ động nghiên cứu, nắm bắt, dự báo sát, đúng tình hình, không ngừng đổi mới tư duy, nhất là tư duy chiến lược.
- Năm là, chủ động ngăn ngừa, phòng, chống bệnh chủ quan duy ý chí, giáo điều, cơ hội, bảo thủ.
Đánh giá chung, sau 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng ta đã từng bước hình thành và hoàn thiện được lý luận về đường lối đổi mới ở Việt Nam, đó là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh kết hợp với văn hóa hơn 4 ngàn năm lịch sử hào hùng của Việt Nam được vận dụng sáng tạo trong điều kiện Việt Nam và bối cảnh thế giới. Đây là sự vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện cụ thể Việt Nam thời kỳ mới; là sự phát triển sáng tạo lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, phù hợp với các quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn đất nước và xu thế thời đại; kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa, giá trị văn hoá và các thành tựu phát triển của nhân loại.
Những điểm mới trong dự thảo Báo cáo Chính trị
Về chủ đề Đại hội: trên cơ sở bổ sung các thành tố tự cường, tự tin, tiến mạnh trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc và chỉnh sửa, bảo đảm ngắn, gọn, rõ, mang tính hiệu triệu, hành động mạnh mẽ, Trung ương thống nhất chủ đề Đại hội XIV là: “Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, chung sức, đồng lòng quyết tâm thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030; tự cường, tự tin, tiến mạnh trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc vì hoà bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội”.
Về đánh giá kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII
- Về bối cảnh tình hình, bổ sung, nhấn mạnh: tình hình thế giới diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường, đặc biệt là hậu quả nặng nề bởi đại dịch Covid-19 và những thay đổi mang tính thời đại; cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra nhanh, sâu sắc, toàn diện hơn, nhất là sự phát triển của trí tuệ nhân tạo (AI); các vấn đề an ninh phi truyền thống, nhất là biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp. Kinh tế thế giới suy giảm và bất ổn.
- Về những kết quả nổi bật, bổ sung, nhấn mạnh một số điểm sau: Kinh tế tăng trưởng khá, đạt mức trung bình 6,2%/năm, thuộc nhóm tăng trưởng cao của khu vực và thế giới. Nhiều mô hình sản xuất kinh doanh mới được hình thành, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển lực lượng sản xuất mới. Phát triển khoa học, công nghệ,đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số có nhiều tiến bộ. Chỉ số phát triển con người (HDI) được nâng lên. Thực hiện miễn học phí đối với học sinh mẫu giáo và phổ thông các cấp. Xóa nhà tạm, nhà dột nát trong năm 2025. Xây dựng 1 triệu căn hộ cho người thu nhập thấp và công nhân lao động. Năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu được nâng lên. Công nghiệp quốc phòng, an ninh được đầu tư phát triển, có đột phá, bảo đảm tính lưỡng dụng, hiện đại. Tham gia tích cực và hiệu quả vào các hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc.Nâng tầm và làm sâu sắc hơn quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với các nước lớn. Thực hiện cuộc cách mạng về cấu trúc lại mô hình tổng thể và tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo hướng tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương.
Về bài học kinh nghiệm: Trung ương đồng ý điều chỉnh, hoàn thiện 3 bài học kinh nghiệm thể hiện tinh thần mới trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, cụ thể:
-Một là, giữ vững nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, thống nhất nhận thức, bám sát thực tiễn, tầm nhìn chiến lược, tư duy đột phá, đề ra những chủ trương, quyết sách đúng đắn, kịp thời, linh hoạt, sáng tạo, ứng phó với mọi tình huống để ổn định và phát triển.
- Hai là, bảo đảm sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và hệ thống chính trị, sự đồng thuận của Nhân dân, tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để tận dụng mọi thời cơ thuận lợi, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, kiên quyết thực hiện thắng lợi cho bằng được các mục tiêu phát triển.
-Ba là, tổ chức thực hiện quyết liệt các chủ trương, quyết sách của Đảng với tư duy mới, cách làm mới: Trong Đảng trước, Trung ương trước, địa phương sau, bảo đảm vai trò quyết định của cấp uỷ đảng và người đứng đầu; gắn tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận với định hướng xây dựng, tổ chức thực hiện quyết liệt chủ trương, đường lối, chính sách.
Về quan điểm, mục tiêu xây dựng, phát triển đất nước trong giai đoạn tới
-Về dự báo bối cảnh, bổ sung, nhấn mạnh: Bối cảnh thế giới đang trải qua những thay đổi mang tính thời đại, tạo ra nhiều thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức lớn đan xen; trong nước đang triển khai những quyết sách chiến lược mang tính cách mạng, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới cao hơn; đồng thời đây cũng là bước ngoặt mới, vận hội mới mang tính lịch sử trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
- Về quan điểm chỉ đạo, bổ sung, nhấn mạnh quan điểm: Bảo đảm phát triển để ổn định và ổn định để phát triển nhanh, bền vững đất nước. Đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển nhanh, bền vững; tháo gỡ kịp thời, dứt điểm các điểm nghẽn, nút thắt; khơi thông và giải phóng mọi nguồn lực, phát huy mọi động lực. Đột phá mạnh mẽ khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; thu hút, trọng dụng nhân tài, đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất mới.
- Về mục tiêu phát triển, bổ sung, nhấn mạnh các nội hàm: (1) Giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; (2) Phát triển nhanh, bền vững dựa trên khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, tự cường, tự tin, tiến mạnh trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc; (3) cải thiện và nâng cao toàn diện đời sống Nhân dân.
- Về các chỉ tiêu chủ yếu 5 năm 2026 - 2030, rà soát, điều chỉnh một số chỉ tiêu, trong đó phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân cho giai đoạn 2026 - 2030 từ 10%/năm trở lên; GDP bình quân đầu người đến năm 2030 đạt khoảng 8.500 USD; tốc độ tăng năng suất lao động xã hội đạt khoảng 8,5%/năm; tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm khoảng 40% GDP.
Về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu
Trong dự thảo Báo cáo Chính trị nêu 12 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, trong đó một số nội dung mới quan trọng được bổ sung bao gồm:
- Về hoàn thiện thể chế phát triển, bổ sung, nhấn mạnh: Đẩy nhanh hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển nhanh, bền vững đất nước, trong đó thể chế chính trị giữ vai trò then chốt, định hướng; thể chế kinh tế là trọng tâm; thể chế trên các lĩnh vực khác là quan trọng. Tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức tổng thể của hệ thống chính trị theo hướng tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, mở rộng không gian phát triển; thực hiện mô hình hệ thống chính trị 3 cấp, chính quyền địa phương 2 cấp.Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhà nước - thị trường - xã hội, để thị trường thực sự có vai trò quyết định trong huy động và phân bổ nguồn lực.
- Về cơ cấu lại nền kinh tế, xác lập mô hình tăng trưởng mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bổ sung, nhấn mạnh các nội dung: Xác lập mô hình tăng trưởng mới với trọng tâm là nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của nền kinh tế, lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chính; tạo ra sức sản xuất mới, phương thức, lĩnh vực sản xuất kinh doanh mới. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tự chủ sản xuất trong nước với việc tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Đẩy mạnh liên kết vùng, mở rộng và cơ cấu lại không gian phát triển phù hợp với hệ thống hành chính mới. Phát huy đầy đủ chức năng, vai trò của các khu vực kinh tế; trong đó phát triển kinh tế nhà nước thật sự giữ vai trò chủ đạo trong việc bảo đảm các cân đối lớn, định hướng chiến lược, dẫn dắt nền kinh tế; phát triển kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế; kinh tế hợp tác, kinh tế tập thể, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và các loại hình kinh tế khác giữ vai trò quan trọng.
- Về phát triển mạnh mẽ, toàn diện văn hoá và con người Việt Nam, bổ sung, nhấn mạnh các nội dung: Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đồng bộ trên nền tảng hệ giá trị quốc gia: Hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc; hệ giá trị văn hoá Việt Nam: Dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học; hệ giá trị gia đình Việt Nam: Tiến bộ, văn minh, ấm no, hạnh phúc; chuẩn mực con người Việt Nam: Yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo. Con người vừa là trung tâm, chủ thể, vừa là mục tiêu, động lực của quá trình phát triển. Phát huy vai trò của Nhân dân là trung tâm của phát triển văn hoá, vừa là chủ thể sáng tạo, vừa là người truyền bá và thụ hưởng các giá trị văn hoá.
- Về xây dựng nền giáo dục quốc dân hiện đại, bổ sung, nhấn mạnh các nội dung: Xây dựng chiến lược quốc gia về giáo dục theo hướng "chuẩn hoá, hiện đại hoá, dân chủ hoá, xã hội hoá và hội nhập quốc tế". Phát triển các phương thức đào tạo mở, các nền tảng dạy và học trực tuyến, phát triển học liệu số, bảo đảm điều kiện học tập suốt đời cho người dân. Ưu tiên phát triển một số đại học quốc gia, đại học vùng, đại học trọng điểm. Kịp thời phát hiện nhân tài trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài; có cơ chế, chính sách đặc biệt để thu hút, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài.
- Về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, bổ sung, nhấn mạnh các nội dung: Trên tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị, khẩn trương, quyết liệt đổi mới và hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách phát triển khoa học công nghệ phù hợp với cơ chế thị trường, chuẩn mực và thông lệ quốc tế; có cơ chế, chính sách vượt trội, phù hợp với đặc thù của lao động sáng tạo, nhất là trong nghiên cứu cơ bản; tháo gỡ dứt điểm các nút thắt, rào cản, trọng tâm là cơ chế quản lý, cơ chế tài chính, cơ chế tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp khoa học công nghệ. Hoàn thiện đồng bộ cơ chế, chính sách đào tạo, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh đội ngũ chuyên gia, nhất là những chuyên gia giỏi, có nhiều cống hiến cho đất nước.
- Về quản lý phát triển xã hội bền vững; bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, bổ sung, nhấn mạnh các nội dung:Đẩy mạnh xây dựng chính phủ số, xã hội số, đáp ứng yêu cầu kiến tạo phát triển và quản lý phát triển xã hội bền vững. Xây dựng hệ thống chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, lấy con người là trung tâm; ưu tiên các đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế và đối tượng trong khu vực phi chính thức, "không để ai bị bỏ lại phía sau". Phấn đấu thực hiện mục tiêu đến năm 2030 cơ bản không còn hộ nghèo, miễn viện phí toàn dân.
- Về tài nguyên, môi trường, biến đổi khí hậu, bổ sung, nhấn mạnh các nội dung: Xây dựng cơ sở dữ liệu trong quản lý, khai thác tài nguyên, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu. Xây dựng, phát triển và khai thác hiệu quả tài nguyên số.
- Về đối ngoại và hội nhập quốc tế, bổ sung, nhấn mạnh các nội dung: Thực hiện Nghị quyết 59-NQ/TW của Bộ Chính trị, phát triển đối ngoại trong kỷ nguyên mới, tương xứng với tầm vóc lịch sử, văn hoá và vị thế của đất nước; xác định đây là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Nâng cao vai trò, vị thế của Việt Nam trong nền chính trị thế giới, kinh tế toàn cầu và văn minh nhân loại.
- Về hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bổ sung, nhấn mạnh các nội dung: Đổi mới tư duy, hoàn thiện phương thức và quy trình xây dựng pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững đất nước trong kỷ nguyên mới. Tiếp tục đổi mới, xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại, giảm mạnh các thủ tục hành chính; chuyển trạng thái từ "xin - cho" cung cấp dịch vụ công sang trạng thái "chủ động" phục vụ, cung cấp dịch vụ công cho người dân, doanh nghiệp. Tiếp tục hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, biên chế, mối quan hệ công tác giữa các cấp chính quyền.
Về nhiệm vụ trọng tâm và đột phá chiến lược
- Về nhiệm vụ trọng tâm: Bổ sung, nhấn mạnh các nội dung: Tiếp tục hoàn thiện và đẩy mạnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện đại, hội nhập quốc tế, đáp ứng yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất mới; đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế; xác lập mô hình tăng trưởng mới lấy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chủ yếu để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tập trung phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, xây dựng xã hội số.
- Về đột phá chiến lược, bổ sung, nhấn mạnh các nội dung: Đột phá mạnh mẽ về thể chế phát triển, khơi thông, giải phóng mọi nguồn lực; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong quản lý, quản trị phát triển giữa Trung ương và địa phương, phát huy vai trò tự chủ, tự chịu trách nhiệm của địa phương. Đẩy mạnh chuyển đổi số; thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân; xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp. Tập trung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; đẩy mạnh thu hút và trọng dụng nhân tài. Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp của hệ thống chính trị thực sự tiêu biểu, nhất là những người đứng đầu.
Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết, Bộ Chính trị, Trung ương đã chỉ đạo các Tiểu ban khẩn trương tiếp thu, hoàn thiện các dự thảo văn kiện để lấy ý kiến đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025-2030. Thay mặt Bộ Chính trị, Thủ tướng Phạm Minh Chính đề nghị các đồng chí Lãnh đạo tổ chức đảng các cấp quán triệt, nghiên cứu kỹ để bổ sung, hoàn thiện văn kiện Đại hội cấp mình. Đối với các tỉnh có sáp nhập, hợp nhất thì các Ban thường vụ phải trao đổi, phối hợp để xây dựng Văn kiện của Đại hội tỉnh mới. Đồng thời, các Tiểu ban tiếp tục nghiên cứu, cập nhật, bổ sung, tiếp thu ý kiến đại hội đảng bộ các cấp để trình Hội nghị Trung ương 12./.