Một là, tổ chức nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận, nghệ thuật, học thuyết bảo vệ Tổ quốc; lý luận, nghệ thuật, học thuyết quốc phòng; lý luận, nghệ thuật, học thuyết bảo vệ an ninh quốc gia tạo cơ sở lý luận vững chắc để xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong kỷ nguyên mới. Trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nét độc đáo, đặc sắc và những bài học kinh nghiệm quý trong lịch sử, bám sát tình hình thực tế trong nước, thế giới có liên quan tới nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, công tác quốc phòng, an ninh để tổ chức những nghiên cứu lớn nêu trên. Xác định đây là một trong những định hướng trọng điểm trong công tác nghiên cứu lý luận của Đảng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Tập trung luận giải, định hình sâu sắc, đầy đủ hơn về tính toàn dân, toàn diện của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng, hình thành lý luận, quan điểm về thế trận bảo vệ Tổ quốc - thế trận tổng hợp, bao trùm, là sự liên kết chặt chẽ trong - ngoài, trên - dưới, với trụ cột là “thế trận lòng dân" gắn chặt với thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc; từ đó xây dựng cơ chế, chính sách cùng các điều kiện bảo đảm cho sự vận hành của thế trận này phù hợp với thực tiễn, tình hình mới. Nghiên cứu, tham mưu để bổ sung, hoàn thiện và làm rõ hơn các phương châm, quan điểm về đối tác, đối tượng, về quan điểm, định hướng, mục tiêu, yêu cầu, phương châm, nguyên tắc, chủ thể, nội dung, hình thức, biện pháp, cơ sở chính trị - pháp lý và bài học kinh nghiệm bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, xã hội; sự phát triển bền vững của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, văn hóa, con người Việt Nam trong kỷ nguyên mới. Nghiên cứu, hoàn thiện lý luận về bảo vệ Tổ quốc trên phương diện đối nội và đối ngoại. Về đối ngoại, chủ động ứng phó, ngăn chặn các âm mưu của các thế lực thù địch xâm phạm chủ quyền, toàn vẹn, thống nhất lãnh thổ; chủ quyền quốc gia trên không gian mạng. Về đối nội, bảo đảm sự ổn định từ bên trong, vai trò lãnh đạo của Đảng, đoàn kết dân tộc; trật tự, kỷ cương xã hội để giữ cho "trong ấm, ngoài êm".
Hai là, thể chế hóa quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, tổng kết thực tiễn thi hành pháp luật về bảo vệ Tổ quốc; nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế để xây dựng, bổ sung, hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật về bảo vệ Tổ quốc phù hợp thực tiễn mới. Trong đó, tập trung rà soát các văn bản pháp luật liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, địa bàn có sự giao thoa giữa các cơ quan, đơn vị để xác định mức độ, tiêu chí hoàn thiện, từ đó lập kế hoạch xây dựng mới hoặc sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Trước mắt, ưu tiên nghiên cứu xây dựng, bổ sung, hoàn thiện quy định pháp luật làm cơ sở trực tiếp cho nhiệm vụ công tác quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc; quy định pháp luật hướng đến mọi người dân được sống ấm no, tự do, hạnh phúc trong môi trường hòa bình; xã hội trật tự, kỷ cương, an ninh, an toàn, lành mạnh và bảo đảm, thực thi đầy đủ quyền con người, quyền công dân được hiến định trong Hiến pháp năm 2013; về vai trò của nhân dân và xây dựng “thế trận lòng dân" trong bảo vệ Tổ quốc. Từng bước bổ sung quy định xử lý, ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống trong hệ thống văn bản pháp luật thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh.
Ba là, xây dựng Quân đội nhân dân tinh, gọn, mạnh, giữ vững và phát huy truyền thống, phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”; xây dựng Công an nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; giữ vững và phát huy truyền thống, phẩm chất Công an nhân dân “Vì nước quên thân, vì dân phục vụ”. Trong đó, chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, nhất là cán bộ cấp chiến dịch, chiến lược đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, với cơ cấu hợp lý, bản lĩnh chính trị vững vàng, năng lực công tác, chiến đấu cao, phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng, làm chủ khoa học, kỹ thuật và công nghệ; là hình mẫu của lòng trung thành với Tổ quốc, Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, gắn bó mật thiết với nhân dân, vì nhân dân phục vụ. Kiên định, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, thách thức, chấp nhận gian khổ, hy sinh vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng, vì Tổ quốc. Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương và các kết luận, hướng dẫn của Đảng để sắp xếp tổ chức bộ máy quân đội, công an, cơ cấu đội ngũ cán bộ, bảo đảm thật sự tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả; đổi mới phương pháp tổ chức công tác để nâng cao hiệu quả công tác, chiến đấu. Nghiên cứu đổi mới cơ chế, chính sách, nâng cao chất lượng thu hút, đào tạo nhân tài, nguồn nhân lực chất lượng cao, chính sách hậu phương đối với lực lượng vũ trang nhân dân đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong tình hình mới. Nâng cao tinh thần cách mạng, sẵn sàng khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung, hoàn thành tốt nhiệm vụ của cán bộ, chiến sĩ. Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ đối với lực lượng vũ trang nhân dân. Đồng thời, đẩy mạnh đấu tranh, phòng, chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động đòi “phi chính trị hóa" Quân đội nhân dân và Công an nhân dân. Lực lượng vũ trang nhân dân phải gương mẫu, đi đầu trên mặt trận bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, quan liêu, lãng phí; luôn là chỗ dựa vững chắc của nhân dân trong sự nghiệp quốc phòng, an ninh.
Bốn là, thống nhất nhận thức nhiệm vụ công tác quốc phòng, an ninh không chỉ bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, mà còn trở thành động lực quan trọng, trực tiếp thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới, mở cửa, hội nhập quốc tế của đất nước trong kỷ nguyên mới. Để đáp ứng được yêu cầu này, lực lượng vũ trang cần tiên phong, gương mẫu, đi đầu trong thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; gắn với Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22/3/2018 của Bộ Chính trị về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030. Mỗi cán bộ, chiến sĩ nêu cao tinh thần học tập suốt đời; tiên phong, gương mẫu trong thực hiện phong trào “Bình dân học vụ số”, chuyển đổi quá trình học tập, rèn luyện và ứng dụng tri thức, kỹ năng số trở thành nhu cầu tự thân, góp phần quan trọng nâng cao năng lực công tác, chiến đấu. Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, tập trung các nguồn lực, có các giải pháp đột phá, sáng tạo, đi tắt, đón đầu, tranh thủ kinh nghiệm quốc tế, ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến để xây dựng nền công nghiệp quốc phòng, an ninh chủ động, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia. Ưu tiên nghiên cứu, làm chủ công nghệ lõi, công nghệ sản xuất các loại vũ khí chiến lược, trang thiết bị nghiệp vụ, công nghệ viễn thông, công nghệ số, công nghệ dữ liệu... Đặc biệt, cần kịp thời nắm bắt những kỹ thuật tiên tiến, công nghệ mới nhất trên thế giới để vừa nghiên cứu ứng dụng vào công tác, chiến đấu; vừa chủ động phát hiện những phương thức, thủ đoạn hoạt động mới của các thế lực thù địch, phản động và các loại tội phạm sử dụng các thành tựu khoa học, công nghệ mới để phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời, hiệu quả.
Năm là, tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh cả về bề rộng, chiều sâu; đối ngoại quốc phòng, an ninh tiếp tục làm tốt vai trò đi trước, mở đường cho hoạt động đối ngoại của đất nước, phục vụ sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, phát huy thế mạnh vị trí địa chiến lược đặc thù; tạo dựng tiềm lực, sức mạnh quốc phòng, an ninh, tranh thủ thời cơ và nguồn lực bên ngoài, chuyển hóa thách thức thành cơ hội, góp phần phục vụ phát triển đất nước và nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam. Kiên quyết, kiên trì thực hiện chính sách quốc phòng “bốn không”, đan xen lợi ích, giữ cân bằng chiến lược và không để cuốn vào cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, nhằm bảo đảm “Đảng vững, nước giàu, dân yên, quân mạnh, thêm bạn, bớt thù”. Nâng tầm, mở rộng đóng góp của Việt Nam cho hòa bình, an ninh, hợp tác, phát triển và tiến bộ của nhân loại; lan tỏa mạnh mẽ hình ảnh đất nước Việt Nam yêu chuộng hòa bình, sẵn sàng làm cầu nối giải quyết xung đột, hạ nhiệt các điểm nóng; tham gia tích cực các sứ mệnh gìn giữ hòa bình, cứu hộ cứu nạn, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa; tích cực đấu tranh với âm mưu, hoạt động chống phá Việt Nam; giải quyết hiệu quả các thách thức, các mối đe dọa an ninh quốc gia, đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tăng cường các hoạt động trên các diễn đàn đa phương, chủ động phối hợp, tham gia quá trình xây dựng pháp luật, tiêu chuẩn mới liên quan đến quốc phòng, an ninh, tạo lập cơ sở vững chắc, góp phần nâng cao hiệu quả bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Tiếp tục phát huy cao độ, hiệu quả công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, không để bị động, bất ngờ trước những biến động mau chóng về chính trị, kinh tế, an ninh trên thế giới và khu vực, sự điều chỉnh chính sách, chiến lược của các đối tác, tranh thủ tối đa thời cơ thuận lợi, giảm thiểu tối đa những tác động tiêu cực đến sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Mở rộng hợp tác quốc tế, chú trọng hợp tác với các đối tác tin cậy, truyền thống, các đối tác có tiềm lực, thế mạnh về khoa học, công nghệ, ưu tiên tập trung thúc đẩy chuyển giao, làm chủ và phát triển công nghệ từ nước ngoài, nhất là công nghệ nguồn, công nghệ chiến lược và đào tạo nguồn nhân lực quốc phòng, an ninh chất lượng cao phục vụ sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Ban Chấp hành Trung ương (2003, 2013, 2023), các nghị quyết về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
2. Bộ Chính trị (khóa VIII; IX, X, XI, XII, XIII), các nghị quyết, Chỉ thị về quốc phòng, an ninh; liên quan đến quốc phòng, an ninh.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X, XI, XII, XIII.